I. TÌNH HÌNH KINH TẾ
1. Tăng trưởng kinh tế
Kinh tế tỉnh Nam Định 6 tháng đầu năm 2023 tăng trưởng 8,50% so với cùng kỳ năm 2022, đây là mức tăng trưởng cao trong vùng Đồng bằng sông Hồng (3/11 tỉnh, thành phố) và cả nước (6/63 tỉnh, thành phố).
Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) 6 tháng đầu năm 2023 theo giá so sánh 2010 ước đạt 27.221 tỷ đồng, tăng 8,50% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,15%, đóng góp 0,71 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 12,59%, đóng góp 4,99 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 7,32%, đóng góp 2,57 điểm phần trăm; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 8,56%, đóng góp 0,23 điểm phần trăm.
Quy mô kinh tế tỉnh Nam Định (GRDP) 6 tháng đầu năm 2023 theo giá hiện hành ước đạt 47.973 tỷ đồng, tăng 11,59% so với cùng kỳ năm 2022. Về cơ cấu kinh tế: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 20,82%; khu vực công nghiệp và xây dựng 42,01%; khu vực dịch vụ 34,46%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm 2,71% (Cơ cấu tương ứng 6 tháng năm 2022: 22,22%; 40,63%; 34,52%; 2,63%).
2. Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm
Thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 3.075 tỷ đồng, bằng 32,4% dự toán năm và bằng 71,3% so với cùng kỳ năm 2022. Chi ngân sách Nhà nước đảm bảo nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng kịp thời nhu cầu chi cho hoạt động của bộ máy Nhà nước và các khoản chi khác.
Thu ngân sách Nhà nước: Tổng thu ngân sách Nhà nước ước đạt 17.833 tỷ đồng, tăng 20,2% so với cùng kỳ năm 2022.
Trong thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn: Thu nội địa đạt 2.744 tỷ đồng, chiếm 15,4% tổng thu và bằng 70,8% so với cùng kỳ năm trước; thu hải quan đạt 321 tỷ đồng, chiếm 1,8% và bằng 74,6%.
Chi ngân sách Nhà nước: Tổng chi ngân sách Nhà nước ước đạt 7.681 tỷ đồng, bằng 40,2% dự toán năm và tăng 14,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Chi đầu tư phát triển 3.800 tỷ đồng, tăng 35,7%, chiếm 49,5% tổng chi; chi thường xuyên 3.880 tỷ đồng, giảm 1,0%, chiếm 50,5%.
b. Hoạt động ngân hàng
Các tổ chức tín dụng trên địa bàn thực hiện nghiêm, kịp thời các cơ chế, chính sách về tiền tệ, tín dụng đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả; đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu vốn tín dụng phục vụ phát triển sản xuất, kinh doanh. Triển khai hiệu quả các chương trình, chính sách tín dụng trọng điểm, nhất là những chính sách thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng chính phủ và Ngân hàng Nhà nước.
Hoạt động bảo hiểm tiếp tục được triển khai rộng khắp nhằm đảm bảo phục vụ tốt nhất cho các tầng lớp nhân dân và người lao động. Thực hiện đầy đủ, kịp thời các chế độ, chính sách liên quan đến lĩnh vực bảo hiểm theo quy định. Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế để tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân, bảo hiểm xã hội cho mọi người lao động. Tỷ lệ người tham gia BHYT ước đạt 91,75% dân số.
3. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản 6 tháng đầu năm 2023 diễn ra trong điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi cho cây trồng, vật nuôi sinh trưởng và phát triển. Năng suất các loại cây trồng vụ Đông Xuân tương đương và cao hơn vụ Đông Xuân năm trước. Chăn nuôi phát triển ổn định; dịch bệnh được kiểm soát. Hoạt động lâm nghiệp đẩy mạnh công tác trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng. Ngành thủy sản đạt sản lượng khá, tập trung khai thác tốt các lợi thế của địa phương.
a. Sản xuất nông nghiệp
Trồng trọt: Diện tích gieo trồng vụ Đông Xuân năm 2023 đạt 91.896 ha lúa và cây rau màu các loại giảm 0,4% so với vụ Đông Xuân năm 2022; gồm 70.394 ha lúa và 21.502 ha cây rau màu các loại. Trong đó, vụ Đông gieo trồng 9.603 ha, tăng 1,7% và vụ Xuân 82.293 ha, giảm 0,7% so với cùng kỳ năm trước.
Chăn nuôi và thú y: Thời điểm cuối tháng 6/2023, đàn trâu ước có 7.619 con, tăng 0,6%; đàn bò 28.670 con, giảm 1,5%; đàn lợn (không tính lợn con chưa tách mẹ) 630.943 con, giảm 0,5% so với cùng thời điểm năm 2022.
Đàn gia cầm 9.214 nghìn con, tăng 2,2%; trong đó đàn gà 6.562 nghìn con, tăng 3,7% so với cùng thời điểm năm 2022.
Sản lượng thịt hơi xuất chuồng các loại 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 107.142 tấn, tăng 2,7% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng 81.828 tấn, tăng 2,3%; sản lượng thịt gia cầm các loại xuất chuồng 18.602 tấn, tăng 5,1%. Sản lượng trứng gia cầm 256.536 nghìn quả, tăng 6,9% so với cùng kỳ năm 2022.
b. Lâm nghiệp
Sản lượng gỗ khai thác 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 2.302 m3, tăng 2,7%; sản lượng củi ước đạt 6.012 ste, tăng 2,3% so với cùng kỳ năm 2022. Sản lượng gỗ và củi khai thác trên địa bàn tỉnh không lớn và được sử dụng tại chỗ phục vụ nhu cầu của người dân.
c. Thuỷ sản
Sáu tháng đầu năm 2023, sản xuất thủy sản phát triển ổn định. Các cơ sở nuôi trồng, khai thác thuỷ sản tranh thủ thời tiết thuận lợi đẩy mạnh sản xuất nhằm nâng cao sản lượng thuỷ sản và hiệu quả kinh tế.
Sản lượng thuỷ sản tháng 6/2023 ước đạt 16.684 tấn, tăng 4,1% so với cùng kỳ năm 2022. Tính chung 6 tháng đầu năm, sản lượng thuỷ sản đạt 93.495 tấn, tăng 4,1% so với cùng kỳ năm trước; trong đó sản lượng nuôi trồng 61.629 tấn và sản lượng khai thác 31.866 tấn.
d. Công tác xây dựng nông thôn mới (NTM)
Triển khai thực hiện Chương trình xây dựng NTM, đến nay toàn tỉnh có 187/204 xã, thị trấn đạt chuẩn NTM nâng cao (đạt 91,7%) và 08 xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu. Xã Giao Phong, huyện Giao Thủy được chọn là một trong 09 xã của cả nước thực hiện thí điểm “Mô hình xã nông thôn mới thông minh” do Trung ương chỉ đạo thuộc Chương trình Chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn mới, hướng tới nông thôn thông minh giai đoạn 2021-2025 (Đợt 1).
4. Sản xuất công nghiệp
Kinh tế thế giới phục hồi chậm, chính sách tiền tệ thắt chặt dẫn đến sụt giảm nhu cầu tiêu dùng ở nhiều nước ảnh hưởng đến các đơn hàng xuất khẩu trên địa bàn tỉnh. Các doanh nghiệp đã chủ động hơn về kế hoạch sản xuất kinh doanh, khắc phục khó khăn để phục hồi và duy trì sản xuất. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp 6 tháng đầu năm 2023 ước tăng 13,27%, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 13,38%.
a. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP)
Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 6/2023 tăng 5,60% so với tháng trước và tăng 14,15% so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm ước tăng 13,27% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 13,38%, đóng góp 13,0 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 11,93%, đóng góp 0,28 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,59%, đóng góp 0,11 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 31,38%, làm giảm 0,12 điểm phần trăm.
b. Sản phẩm sản xuất chủ yếu
Hoạt động công nghiệp 6 tháng đầu năm tập trung nguồn lực sản xuất các sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Một số nhóm sản phẩm công nghiệp chủ lực 6 tháng tăng so với cùng kỳ năm trước: Thịt lợn đông lạnh tăng 13,79%; sợi các loại tăng 15,23%; vải các loại tăng 8,37%; quần áo may sẵn tăng 11,01%; sản phẩm mây tre đan các loại tăng 22,55%; cửa ra vào, cửa sổ bằng sắt thép tăng 7,79%;... Bên cạnh đó, một sản phẩm giảm so với cùng kỳ năm trước: Muối chế biến giảm 23,88%; khăn các loại giảm 8,61%; thuốc dạng lỏng giảm 16,92%; phụ tùng xe đạp giảm 31,11%.
c. Chỉ số tiêu thụ, tồn kho
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 6/2023 tăng 5,66% so với tháng trước. Tính chung 6 tháng, chỉ số này tăng 3,24% so với cùng kỳ năm 2022.
Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 30/6/2023 giảm 13,14% so với cùng thời điểm năm trước.
5. Đầu tư và xây dựng
Ngay từ đầu năm, tỉnh Nam Định tập trung đẩy mạnh thực hiện nguồn vốn đầu tư công, nhất là các dự án hạ tầng giao thông để tăng cường giao thương, liên kết vùng tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cả trong ngắn hạn và dài hạn. Do đó, hoạt động đầu tư và xây dựng 6 tháng đầu năm 2023 đạt mức tăng khá: Vốn đầu tư thực hiện theo giá hiện hành tăng 12,2%; giá trị sản xuất ngành xây dựng theo giá so sánh tăng 12,8% so với cùng kỳ.
Vốn đầu tư trên địa bàn: Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 22.145 tỷ đồng, tăng 12,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Vốn Nhà nước 4.217 tỷ đồng, chiếm 19,0% và tăng 14,5%; vốn ngoài Nhà nước 16.158 tỷ đồng, chiếm 73,0% và tăng 11,4%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.770 tỷ đồng, chiếm 8,0% và tăng 13,5%.
Trong tháng, tỉnh tiếp tục đôn đốc đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án: Xây dựng tuyến đường bộ mới Nam Định - Lạc Quần - đường bộ ven biển; Giai đoạn II dự án Xây dựng tuyến đường trục phát triển nối vùng kinh tế biển tỉnh Nam Định với đường cao tốc cầu Giẽ - Ninh Bình; Xây dựng tuyến đường bộ ven biển đoạn qua tỉnh Nam Định; Xây dựng cầu qua sông Đào; Xây dựng đường trục phía Nam thành phố Nam Định; Tỉnh lộ 485B; Khu Trung tâm lễ hội thuộc khu di tích lịch sử - văn hóa thời Trần; Bệnh viện đa khoa tỉnh; Các dự án xây dựng hạ tầng khu đô thị, khu (điểm) dân cư tập trung, khu tái định cư của các huyện, thành phố.
b. Xây dựng
Giá trị sản xuất ngành xây dựng theo giá so sánh 6 tháng đầu năm tăng 12,8% so với cùng kỳ năm trước.
Các công trình trọng điểm của Nhà nước tập trung đẩy nhanh tiến độ thi công, giải phóng mặt bằng: Dự án xây dựng tuyến đường bộ ven biển đoạn qua tỉnh Nam Định (2020-2024) có tổng mức đầu tư 2.655 tỷ đồng; Dự án Kênh nối Đáy - Ninh Cơ (2020-2023) có tổng mức đầu tư 107,19 triệu USD; Dự án tuyến đường bộ mới Nam Định - Lạc Quần - Đường bộ ven biển (2022-2027) có tổng mức 5.995 tỷ đồng; Dự án đầu tư xây dựng cầu vượt sông Đào nối từ đường Song Hào đến đường Vũ Hữu Lợi (2022-2025) tổng mức đầu tư 1.200 tỷ đồng; Dự án đầu tư xây dựng đường trục phía Nam thành phố Nam Định (2022-2025) tổng mức đầu tư 1.499 tỷ đồng;…
Các công trình phát triển cơ sở hạ tầng xúc tiến thu hút đầu tư tiếp tục được huy động tối đa nguồn lực: KCN Dệt may Rạng Đông, KCN Mỹ Thuận, KCN Bảo Minh mở rộng, CCN Yên Bằng, CCN Thanh Côi đảm bảo tính đồng bộ của hạ tầng kỹ thuật, đồng thời xúc tiến, thu hút các nhà đầu tư thứ cấp.
Dự án của doanh nghiệp ngoài nhà nước tiếp tục được đầu tư xây dựng, thi công: Dự án Nhà máy sản xuất cấu kiện bê tông đúc sẵn thuộc tổ hợp thép xanh Xuân Thiện Nam Định (2022-2024) có tổng mức đầu tư 900 tỷ đồng; Dự án Xây dựng nhà máy may Công ty TNHH Nice Power 800 tỷ đồng; Dự án xây xưởng dệt nhuộm Công ty Cổ phần Dệt nhuộm Sunrise ước đầu tư 143,9 tỷ đồng; Công ty TNHH Ramatex Nam Định tiếp tục hoàn thiện phân xưởng với 331,4 tỷ đồng. Dự án nhà máy sản xuất máy tính và thiết bị ngoại vi của Tập đoàn Quanta Computer Inc có vốn đầu tư 120 triệu USD (tương đương 2.829 tỷ đồng) trên diện tích hơn 225.000 m2 đất thuộc KCN Mỹ Thuận được bắt đầu khởi công, tập trung xây dựng từ ngày 10/5/2023.
6. Hoạt động của doanh nghiệp
a. Tình hình đăng ký kinh doanh
Tình hình đăng ký doanh nghiệp trong 6 tháng đầu năm 2023 ghi nhận nhiều tín hiệu khởi sắc. Số doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường tăng 4,7%; số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường giảm 11,0% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, số doanh nghiệp mới thành lập tăng 14,4% với số vốn đăng ký tăng 35,8% và lao động tăng 28,6%.
b. Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp
Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo quý II/2023 được đánh giá tốt hơn quý I/2023: Có 81,56% số doanh nghiệp đánh giá tình hình SXKD tốt lên và giữ ổn định; 18,44% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn so với quý I/2023. Dự báo hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo quý III/2023 duy trì xu hướng như trong quý II/2023.
7. Thương mại, dịch vụ, giá cả
a. Tình hình nội thương
Hoạt động thương mại và dịch vụ 6 tháng đầu năm 2023 phát triển ổn định. Cung cầu hàng hóa thiết yếu được bảo đảm, hoạt động mua sắm hàng hóa, tiêu dùng tăng khá. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ 6 tháng đầu năm tăng 13,6% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tháng 6/2023 ước đạt 5.704 tỷ đồng, tăng 0,1% so với tháng trước và tăng 14,3% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó: Bán lẻ hàng hóa 5.088 tỷ đồng, tương đương so với tháng trước; lưu trú và ăn uống 324 tỷ đồng, giảm 1,2%; du lịch lữ hành 1 tỷ đồng, giảm 8,4%; dịch vụ khác 291 tỷ đồng, tăng 3,2%.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ 6 tháng đầu năm 2023 có quy mô cao nhất trong giai đoạn 2019-2023 và gấp 1,5 lần so với 6 tháng đầu năm 2019 - năm trước khi xảy ra dịch Covid-19. Tính chung 6 tháng đầu năm, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ đạt 33.404 tỷ đồng, tăng 13,6% so với cùng kỳ năm trước. Xét theo ngành hoạt động:
b. Xuất, nhập khẩu
Kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn đã ảnh hưởng đến kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa trên địa bàn tỉnh. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa 6 tháng đầu năm 2023 giảm mạnh, ước đạt 1.898 triệu USD, giảm 11,8% so với cùng kỳ năm 2022; trong đó xuất khẩu hàng hóa giảm 8,9%. Cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 584 triệu USD.
Tính chung 6 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 1.241 triệu USD, giảm 8,9% so với cùng kỳ năm 2022, trong đó: Khu vực Nhà nước 24 triệu USD, giảm 18,4%; khu vực ngoài Nhà nước 314 triệu USD, giảm 18,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 903 triệu USD, giảm 4,6%. Mặt hàng xuất khẩu trên địa bàn tỉnh chủ yếu là hàng may mặc, da giầy và lâm sản.
Tính chung 6 tháng đầu năm, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt 657 triệu USD, giảm 16,7% so với cùng kỳ năm 2022, trong đó: Khu vực Nhà nước 19 triệu USD, tăng 27,8%; khu vực ngoài Nhà nước 181 triệu USD, giảm 13,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 457 triệu USD, giảm 19,1%. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là nguyên liệu phục vụ sản xuất và gia công như: Nguyên phụ liệu may; da và các mặt hàng liên quan; bông, xơ, sợi dệt.
c. Giá cả
Giá thực phẩm tăng theo nhu cầu tiêu dùng; giá điện, nước sinh hoạt tăng do thời tiết nắng nóng kéo dài là những yếu tố làm cho chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6/2023 tăng 0,23% so với tháng trước và tăng 0,88% so với cùng kỳ năm 2022. Bình quân 6 tháng năm 2023, CPI tăng 2,41% so với cùng kỳ năm trước.
Bình quân 6 tháng đầu năm 2023, CPI tăng 2,41% so với cùng kỳ năm trước; chỉ số giá vàng tăng 0,91% và chỉ số giá đô la Mỹ tăng 2,77%. Trong 11 nhóm hàng hóa có 8 nhóm tăng, trong đó nhóm giáo dục tăng nhiều nhất 18,74%; ba nhóm giảm là nhóm giao thông (giảm 6,40%); nhóm bưu chính viễn thông (giảm 0,80%), nhóm văn hóa, giải trí và du lịch (giảm 1,22%).
d. Giao thông vận tải
Hoạt động vận tải 6 tháng đầu năm 2023 tăng trưởng cả về vận tải hành khách và hàng hóa. Vận chuyển hành khách tăng 13,1% và luân chuyển tăng 8,6% do nhu cầu đi lại, du lịch của người dân tăng cao so với cùng kỳ năm trước. Vận tải hàng hóa đáp ứng nhu cầu phục vụ sản xuất, kinh doanh với hàng hóa vận chuyển tăng 23,2% và luân chuyển tăng 15,1%.
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI
1. Đời sống dân cư
Sáu tháng đầu năm 2023, đời sống các tầng lớp dân cư trên địa bàn tỉnh nhìn chung ổn định, không có trường hợp thiếu đói. Công tác an sinh xã hội được chính quyền các cấp quan tâm thực hiện; chương trình xây dựng nông thôn mới trong những năm qua có tác động tích cực, góp phần nâng cao đời sống người dân, đẩy mạnh phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội khu vực nông thôn.
Trong dịp Tết Nguyên đán, các cấp, các ngành tổ chức tốt các hoạt động thăm, tặng quà đối tượng chính sách, người có công, thân nhân liệt sỹ, người nghèo, người cao tuổi, đối tượng bảo trợ xã hội với tổng kinh phí trên 81,7 tỷ đồng.
Thực hiện chính sách với người có công: Hoạt động đền ơn đáp nghĩa, tưởng nhớ, tri ân những người có công với cách mạng luôn được các cấp ủy Đảng, chính quyền, ban ngành, đoàn thể và nhân dân quan tâm bằng những hành động cụ thể, thiết thực. Tính đến hết tháng 5/2023, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh chi trả trợ cấp hàng tháng cho hơn 44.000 đối tượng với tổng kinh phí hơn 409 tỷ đồng; giải quyết chế độ chính sách đối với 5.674 lượt người có công và thân nhân người có công; lập thủ tục, giới thiệu tới Hội đồng Giám định y khoa tỉnh để khám giám định thương tật đối với 38 trường hợp; đề nghị Bộ LĐ-TB&XH trình Thủ tướng Chính phủ cấp Bằng “Tổ quốc ghi công” đối với 84 trường hợp.
Công tác bảo trợ xã hội: Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh thực hiện đầy đủ các chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng, phục hồi chức năng và dạy nghề cho trên 230 đối tượng đang quản lý; đồng thời tiếp nhận 05 đối tượng bảo trợ xã hội có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; 15 trẻ em khuyết tật còn khả năng tiếp thu nghề vào học nghề, phục hồi chức năng tại Trung tâm.
Việc chăm lo Tết cho các đối tượng bảo trợ xã hội được các cấp, các ngành của tỉnh tích cực thực hiện. Các tổ chức, cá nhân bằng nhiều hình thức phù hợp ủng hộ tiền, gạo, thực phẩm, bánh chưng, nhu yếu phẩm thiết yếu; quần áo ấm, khám chữa bệnh, cấp thuốc, tu sửa nhà dột nát. Kết quả, trong dịp Tết Nguyên đán Quý Mão, các cấp các ngành trên địa bàn tỉnh đi thăm, tặng quà các đối tượng bảo trợ xã hội 152.300 suất quà, trị giá hơn 43,42 tỷ đồng.
Công tác giảm nghèo: Giảm nghèo bền vững là một trong những tiêu chí quan trọng trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Theo Quyết định số 62/QĐ-UBND ngày 06/01/2023 của UBND tỉnh về việc Phê duyệt kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2022; tỷ lệ hộ nghèo là 1,32% và hộ cận nghèo là 3,45%.
Giải quyết việc làm và đào tạo nghề: Ước 6 tháng đầu năm giải quyết việc làm mới cho khoảng 15.900 lượt người lao động, bằng 50% kế hoạch; trong đó: 1.657 người đi xuất khẩu lao động, bằng 118,4% kế hoạch. Tuyển sinh đào tạo nghề cho 16.800 người, bằng 47,7% kế hoạch. Tỷ lệ lao động qua đào tạo ước đạt 76,2%.
Tác giả bài viết: Trần Ngọc Linh - Phòng Thống kê Tổng hợp
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn