Chỉ số giá tháng 9 năm 2024

Thứ tư - 09/10/2024 03:09

Giá lương thực, thực phẩm tăng; giá gas tăng là những nguyên nhân chính làm cho chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9/2024 tăng 0,57% so với tháng trước và tăng 4,01% so với cùng kỳ năm 2023. Bình quân 9 tháng năm 2024, CPI tăng 4,22% so với cùng kỳ năm trước; chỉ số giá vàng tăng 19,26% và chỉ số giá đô la Mỹ tăng 5,39%.

Tốc độ tăng/giảm CPI tháng 9 và 9 tháng các năm 2020-2024 (%)

Trong mức tăng 0,57% của CPI tháng 9/2024 so với tháng trước, có 07 nhóm hàng tăng giá; 01 nhóm hàng giảm giá và 03 nhóm giá ổn định.

(1) Bảy nhóm hàng hóa và dịch vụ tăng giá gồm:

Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống uống chiếm tỷ trọng lớn nhất trong CPI tăng nhiều nhất 1,72% so với tháng trước, trong đó: lương thực tăng 1,11%[1]; thực phẩm tăng 2,30%[2]; ăn, uống ngoài gia đình tăng 0,09%[3].

Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,73% chủ yếu ở mặt hàng cây, hoa cảnh tăng 10,52% do mưa lớn, gió giật mạnh từ cơn bão số 3 gây thiệt hại nhiều về cây xanh và hoa màu trên địa bàn tỉnh. Bên cạnh đó, đồ chơi trẻ em tăng 1,13%; phí truyền hình và internet tăng 0,79%. Ở chiều ngược lại, giá thiết bị văn hóa giảm 0,10% do giá tivi màu giảm 0,11%.

Nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,50% do các nguyên nhân sau: Giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 0,24%; giá nước sinh hoạt tăng 0,31%; giá điện sinh hoạt tăng 1,21% do nhu cầu tiêu thụ tăng; giá gas tăng 2,41%, nguyên nhân từ ngày 01/9/2024, giá gas trong nước điều chỉnh tăng 7.000 đồng/bình 12 kg sau khi giá gas thế giới bình quân tháng 9 tăng 20 USD/tấn (từ mức 580 USD /tấn lên mức 600 USD/tấn). Ở chiều ngược lại, giá dầu hỏa giảm 7,02% do ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giá làm giá dầu hỏa giảm 1.378 đồng/lít.

Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,36% tập trung ở các mặt hàng vật dụng về hỉ tăng 4,36%; đồ trang sức tăng 1,60%; vật dụng tang lễ, thờ cúng tăng 0,59%; hàng chăm sóc cơ thể tăng 0,37% và máy dùng điện cho chăm sóc cá nhân tăng 0,22%.

Nhóm giáo dục tăng 0,33% tập trung chủ yếu giáo dục trung học phổ thông tăng 2,50% do học phí các trường trung học phổ thông dân lập tăng.

Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,30% do dịch vụ sửa chữa thiết bị gia đình tăng, trong đó: dịch vụ sửa chữa ti vi tăng 11,29%; sửa chữa máy giặt tăng 8,71%; sửa chữa tủ lạnh tăng 7,67%. Bên cạnh đó, một số mặt hàng tăng giá theo nhu cầu như: pin, đèn pin tăng 4,77%; dụng cụ làm vườn tăng 3,54%; công cụ cầm tay tăng 1,49%; bếp đun không dùng điện, ga tăng 1,12%; giấy vệ sinh tăng 1,28%; chăn, màn, gối tăng 1,09%.

Nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,20% do giá nguyên phụ liệu sản xuất, chi phí nhân công và nhu cầu mua sắm chuẩn bị bước vào năm học mới tăng. Trong đó: quần áo may sẵn tăng 0,25%; mũ nón tăng 1,43%; giầy, dép tăng 0,07%; dịch vụ may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,20%.

(2) Ở chiều ngược lại, nhóm giao thông giảm 2,53% do giá xăng, dầu trong nước điều chỉnh giảm theo giá nhiên liệu thế giới. Bình quân tháng 9/2024 giá nhiên liệu giảm 6,66%, trong đó: giá xăng giảm 6,90%, cụ thể xăng A95 bình quân giảm 1.555 đồng/lít, xăng E5 giảm 1.415 đồng/lít. Bên cạnh đó, giá dịch vụ giao thông công cộng giảm 0,84%, trong đó giá vận tải hành khách bằng đường sắt giảm 2,17%; vận tải hành khách bằng đường hàng không giảm 14,66%. Ở chiều ngược lại, giá phương tiện đi lại tăng 0,13%, trong đó xe máy tăng 0,35%; xe đạp tăng 0,64% do nhu cầu tăng khi học sinh chuẩn bị bước vào năm học mới. Giá dịch vụ sửa chữa xe máy tăng 0,44% do nhu cầu của người dân và chi phí nhân công tăng.

Bình quân 9 tháng năm 2024, CPI tăng 4,22% so với cùng kỳ năm trước; chỉ số giá vàng tăng 19,26% và chỉ số giá đô la Mỹ tăng 5,39%. Trong 11 nhóm hàng hóa có 10 nhóm tăng, trong đó nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng nhiều nhất 10,01%; một nhóm giảm là nhóm bưu chính viễn thông (giảm 0,46%).


[1] Chỉ số giá gạo tăng 0,82% theo giá gạo xuất khẩu (Giá mặt hàng gạo tẻ thường tăng 0,81%; gạo tẻ ngon tăng 0,81%; gạo nếp tăng 0,78%). Bên cạnh đó, giá khoai tăng 9,75%; ngô tăng 3,84%; bánh mì tăng 1,66%; sắn tăng 1,54%; bột mì tăng 1,28%; ngũ cốc khác tăng 0,54%.

[2] Giá thịt lợn tăng 0,38% do nhiều trang trại nuôi lợn ở miền Bắc thiệt hại nặng sau bão lũ khiến nguồn cung khan hiếm. Giá thịt bò tăng 0,07%; thịt gia cầm tăng 0,88%; giá trứng các loại tăng 1,91% do vào mùa sản xuất bánh Trung thu. Thủy sản tươi sống tăng 2,30% do ảnh hưởng của mùa mưa bão nên ngư dân hạn chế ra khơi, trong đó cá tươi hoặc ướp lạnh tăng 1,02%; tôm tươi hoặc ướp lạnh tăng 3,31%; thủy sản chế biến tăng 0,52%. Giá rau tươi, khô và chế biến tăng 14,34% do ảnh hưởng của cơn bão số 3 (Yagi) gây mưa lớn vào đầu tháng 9 làm thiệt hại nhiều diện tích rau màu khiến giá rau tăng cao, trong đó cà chua tăng 30,99%; bắp cải tăng 27,65%; đỗ quả tươi tăng 20,89%; rau muống tăng 19,22%; su hào tăng 15,44%. Giá quả tươi, chế biến tăng 4,96% do một số loại hoa quả hết mùa vụ thu hoạch, xoài tăng 8,02%; quả tươi khác tăng 6,28%; quả có múi tăng 5,66%; táo tăng 1,46%.

[3] Do giá nguyên liệu chế biến ở mức cao và nhu cầu tiêu dùng vào dịp Lễ Quốc khánh 02/9. Trong đó, giá uống ngoài gia đình tăng 0,31%; đồ ăn nhanh mang đi tăng 1,34%.

Tác giả bài viết: Đỗ Thị Bích Ngọc - Phòng TK Tổng hợp

Tổng số điểm của bài viết là: 4 trong 4 đánh giá

Xếp hạng: 1 - 4 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Điều tra doanh nghiệp
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây