Giá lương thực, thực phẩm tăng; giá gas tăng là những nguyên nhân chính làm cho chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9/2024 tăng 0,57% so với tháng trước và tăng 4,01% so với cùng kỳ năm 2023. Bình quân 9 tháng năm 2024, CPI tăng 4,22% so với cùng kỳ năm trước; chỉ số giá vàng tăng 19,26% và chỉ số giá đô la Mỹ tăng 5,39%.
Tốc độ tăng/giảm CPI tháng 9 và 9 tháng các năm 2020-2024 (%)
Trong mức tăng 0,57% của CPI tháng 9/2024 so với tháng trước, có 07 nhóm hàng tăng giá; 01 nhóm hàng giảm giá và 03 nhóm giá ổn định.
(1) Bảy nhóm hàng hóa và dịch vụ tăng giá gồm:
Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống uống chiếm tỷ trọng lớn nhất trong CPI tăng nhiều nhất 1,72% so với tháng trước, trong đó: lương thực tăng 1,11%[1]; thực phẩm tăng 2,30%[2]; ăn, uống ngoài gia đình tăng 0,09%[3].
Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,73% chủ yếu ở mặt hàng cây, hoa cảnh tăng 10,52% do mưa lớn, gió giật mạnh từ cơn bão số 3 gây thiệt hại nhiều về cây xanh và hoa màu trên địa bàn tỉnh. Bên cạnh đó, đồ chơi trẻ em tăng 1,13%; phí truyền hình và internet tăng 0,79%. Ở chiều ngược lại, giá thiết bị văn hóa giảm 0,10% do giá tivi màu giảm 0,11%.
Nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,50% do các nguyên nhân sau: Giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 0,24%; giá nước sinh hoạt tăng 0,31%; giá điện sinh hoạt tăng 1,21% do nhu cầu tiêu thụ tăng; giá gas tăng 2,41%, nguyên nhân từ ngày 01/9/2024, giá gas trong nước điều chỉnh tăng 7.000 đồng/bình 12 kg sau khi giá gas thế giới bình quân tháng 9 tăng 20 USD/tấn (từ mức 580 USD /tấn lên mức 600 USD/tấn). Ở chiều ngược lại, giá dầu hỏa giảm 7,02% do ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giá làm giá dầu hỏa giảm 1.378 đồng/lít.
Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,36% tập trung ở các mặt hàng vật dụng về hỉ tăng 4,36%; đồ trang sức tăng 1,60%; vật dụng tang lễ, thờ cúng tăng 0,59%; hàng chăm sóc cơ thể tăng 0,37% và máy dùng điện cho chăm sóc cá nhân tăng 0,22%.
Nhóm giáo dục tăng 0,33% tập trung chủ yếu ở giáo dục trung học phổ thông tăng 2,50% do học phí các trường trung học phổ thông dân lập tăng.
Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,30% do dịch vụ sửa chữa thiết bị gia đình tăng, trong đó: dịch vụ sửa chữa ti vi tăng 11,29%; sửa chữa máy giặt tăng 8,71%; sửa chữa tủ lạnh tăng 7,67%. Bên cạnh đó, một số mặt hàng tăng giá theo nhu cầu như: pin, đèn pin tăng 4,77%; dụng cụ làm vườn tăng 3,54%; công cụ cầm tay tăng 1,49%; bếp đun không dùng điện, ga tăng 1,12%; giấy vệ sinh tăng 1,28%; chăn, màn, gối tăng 1,09%.
Nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,20% do giá nguyên phụ liệu sản xuất, chi phí nhân công và nhu cầu mua sắm chuẩn bị bước vào năm học mới tăng. Trong đó: quần áo may sẵn tăng 0,25%; mũ nón tăng 1,43%; giầy, dép tăng 0,07%; dịch vụ may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,20%.
(2) Ở chiều ngược lại, nhóm giao thông giảm 2,53% do giá xăng, dầu trong nước điều chỉnh giảm theo giá nhiên liệu thế giới. Bình quân tháng 9/2024 giá nhiên liệu giảm 6,66%, trong đó: giá xăng giảm 6,90%, cụ thể xăng A95 bình quân giảm 1.555 đồng/lít, xăng E5 giảm 1.415 đồng/lít. Bên cạnh đó, giá dịch vụ giao thông công cộng giảm 0,84%, trong đó giá vận tải hành khách bằng đường sắt giảm 2,17%; vận tải hành khách bằng đường hàng không giảm 14,66%. Ở chiều ngược lại, giá phương tiện đi lại tăng 0,13%, trong đó xe máy tăng 0,35%; xe đạp tăng 0,64% do nhu cầu tăng khi học sinh chuẩn bị bước vào năm học mới. Giá dịch vụ sửa chữa xe máy tăng 0,44% do nhu cầu của người dân và chi phí nhân công tăng.
Bình quân 9 tháng năm 2024, CPI tăng 4,22% so với cùng kỳ năm trước; chỉ số giá vàng tăng 19,26% và chỉ số giá đô la Mỹ tăng 5,39%. Trong 11 nhóm hàng hóa có 10 nhóm tăng, trong đó nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng nhiều nhất 10,01%; một nhóm giảm là nhóm bưu chính viễn thông (giảm 0,46%).
[1] Chỉ số giá gạo tăng 0,82% theo giá gạo xuất khẩu (Giá mặt hàng gạo tẻ thường tăng 0,81%; gạo tẻ ngon tăng 0,81%; gạo nếp tăng 0,78%). Bên cạnh đó, giá khoai tăng 9,75%; ngô tăng 3,84%; bánh mì tăng 1,66%; sắn tăng 1,54%; bột mì tăng 1,28%; ngũ cốc khác tăng 0,54%.
[2] Giá thịt lợn tăng 0,38% do nhiều trang trại nuôi lợn ở miền Bắc thiệt hại nặng sau bão lũ khiến nguồn cung khan hiếm. Giá thịt bò tăng 0,07%; thịt gia cầm tăng 0,88%; giá trứng các loại tăng 1,91% do vào mùa sản xuất bánh Trung thu. Thủy sản tươi sống tăng 2,30% do ảnh hưởng của mùa mưa bão nên ngư dân hạn chế ra khơi, trong đó cá tươi hoặc ướp lạnh tăng 1,02%; tôm tươi hoặc ướp lạnh tăng 3,31%; thủy sản chế biến tăng 0,52%. Giá rau tươi, khô và chế biến tăng 14,34% do ảnh hưởng của cơn bão số 3 (Yagi) gây mưa lớn vào đầu tháng 9 làm thiệt hại nhiều diện tích rau màu khiến giá rau tăng cao, trong đó cà chua tăng 30,99%; bắp cải tăng 27,65%; đỗ quả tươi tăng 20,89%; rau muống tăng 19,22%; su hào tăng 15,44%. Giá quả tươi, chế biến tăng 4,96% do một số loại hoa quả hết mùa vụ thu hoạch, xoài tăng 8,02%; quả tươi khác tăng 6,28%; quả có múi tăng 5,66%; táo tăng 1,46%.
[3] Do giá nguyên liệu chế biến ở mức cao và nhu cầu tiêu dùng vào dịp Lễ Quốc khánh 02/9. Trong đó, giá uống ngoài gia đình tăng 0,31%; đồ ăn nhanh mang đi tăng 1,34%.
Tác giả bài viết: Đỗ Thị Bích Ngọc - Phòng TK Tổng hợp
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn