Page 55 - Kinh tế xã hội tỉnh Nam Định mười năm 2011-2020
P. 55
trên mức sinh thay thế (trừ 3 năm 2011, 2012 và 2014), khẳng định
trong thời gian tới cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách chăm
sóc sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình kết hợp với việc đầu tư
xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, chương trình dân số và phát
triển, chiến dịch chăm sóc sức khỏe cộng đồng, đặc biệt là sức khỏe
sinh sản ở khu vực nông thôn.
Năm 2020, TFR của khu vực thành thị là 2,50 con/phụ nữ,
thấp hơn so với khu vực nông thôn (2,80 con/phụ nữ). Trong mười
năm 2011- 2020, TFR khu vực thành thị có năm bằng hoặc thấp hơn
mức sinh thay thế trong khi TFR khu vực nông thôn đều cao hơn
mức sinh thay thế (trừ năm 2012). Sự khác biệt về TFR giữa khu
vực thành thị và nông thôn do các cặp vợ chồng ở thành thị được
tiếp cận với các nguồn thông tin dễ dàng hơn, nhận thức tốt hơn về
lợi ích của gia đình ít con mang lại so với các cặp vợ chồng ở nông
thôn và việc dễ dàng tiếp cận các cơ sở y tế cung cấp các dịch vụ kế
hoạch hóa gia đình cũng giúp họ tránh mang thai và sinh con ngoài
ý muốn.
Tỷ suất sinh thô (CBR) thường được sử dụng để tính tỷ suất
tăng tự nhiên của dân số, là chỉ tiêu được sử dụng chủ yếu để tính
tỷ lệ gia tăng dân số hơn là để đánh giá sự thay đổi mức sinh như
TFR, vì nó không chỉ chịu tác động bởi mức sinh mà còn bởi cơ
cấu tuổi và giới tính của dân số. Năm 2011, CBR của tỉnh Nam
Định là 15,6 trẻ sinh sống/1000 dân thì đến năm 2020 là 14,6 trẻ
sinh sống/1000 dân.
4.1.2. Lao động, việc làm
Từ năm 2011 đến năm 2019, tình hình lao động, việc làm trên
địa bàn tỉnh Nam Định có sự chuyển biến tích cực, tỷ lệ thất nghiệp,
thiếu việc làm giảm, số người có việc làm tăng, thu nhập của người
lao động làm công hưởng lương có xu hướng tăng. Nhưng đến cuối
tháng 01/2020, dịch Covid-19 xuất hiện đã gây tác động lớn đến
55