Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tháng 8 và 8 tháng năm 2024

Thứ ba - 03/09/2024 21:32

I. TÌNH HÌNH KINH TẾ

Sản xuất nông nghiệp trong tháng tập trung chủ yếu chăm sóc cây trồng vụ Mùa, đặc biệt kiểm tra, theo dõi tình hình phát triển của cây lúa. Chăn nuôi phát triển ổn định, tình hình dịch bệnh gia súc, gia cầm được kiểm soát. Sản xuất lâm nghiệp đẩy mạnh công tác trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng. Hoạt động nuôi trồng, khai thác thủy sản tranh thủ thời tiết thuận lợi đẩy mạnh sản xuất nhằm nâng cao sản lượng và hiệu quả kinh tế.

a. Sản xuất nông nghiệp

Trồng trọt: Vụ Mùa năm 2024 toàn tỉnh gieo trồng 79.575 ha lúa và cây rau màu các loại, giảm 0,5% so với vụ Mùa năm trước; gồm 70.761 ha lúa và 8.814 ha rau màu các loại.

Cây lúa gieo trồng 70.761 ha lúa, giảm 0,6% so với vụ Mùa năm 2023. Diện tích giảm do một số nguyên nhân: Bỏ hoang 344 ha, chuyển sang đất phi nông nghiệp 364 ha, ảnh hưởng của mưa ngập 140 ha,...

 Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, do ảnh hưởng đợt mưa lớn từ ngày 14 - 18/7/2024 trùng vào thời điểm triều cường và xả lũ từ các hồ thủy điện gây ra ngập úng, một số diện tích lúa trên địa bàn tỉnh phải tiến hành gieo cấy lại và dặm tỉa, trong đó có 140 ha lúa bị thiệt hại không cấy lại được do không kịp khung thời vụ. Hiện tại, lúa đang ở giai đoạn phân hóa đòng, diện tích gieo cấy sớm bắt đầu trỗ. Dự kiến lúa toàn tỉnh trỗ bông tập trung từ 05-15/9, diện tích gieo cấy lại trỗ tập trung từ 25/9-05/10.

Cây rau màu các loại đạt 8.814 ha, tăng 0,1% so với năm trước, trong đó: ngô và cây lương thực có hạt khác 911 ha; cây lấy củ có chất bột 623 ha; cây có hạt chứa dầu 1.093 ha; cây rau, đậu và các loại hoa 5.509 ha. Cây ngô đang giai đoạn trỗ cờ - phun râu - phát triển bắp, diện tích trồng sớm bắt đầu thu hoạch; lạc đang đâm tia củ.

Chăn nuôi: Tại thời điểm cuối tháng 8/2024, đàn trâu có 7.652 con, tăng 0,4% so với cùng thời điểm năm trước; đàn bò 28.587 con, giảm 0,1%; đàn lợn 584.484 con, tăng 0,9%; đàn gia cầm 9.449 nghìn con, tăng  2,5%, trong đó đàn gà 6.649 nghìn con, tăng 2,6%.

Tám tháng năm 2024, sản lượng trâu xuất chuồng đạt 668 tấn, tăng 1,4% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng bò xuất chuồng 2.146 tấn, tăng 1,2%; sản lượng lợn xuất chuồng 104.051 tấn, tăng 2,6%. Sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng 26.857 tấn, tăng 8,0%; sản lượng trứng gia cầm 352.991 nghìn quả, tăng 5,2%.

b. Lâm nghiệp

Sản lượng gỗ khai thác tám tháng năm 2024 ước đạt 2.979 m3, tăng 1,1%; sản lượng củi 8.796 ste, tăng 1,7% so cùng kỳ năm trước.

c. Thuỷ sản

Sản xuất thủy sản tháng 8/2024 phát triển ổn định; dự ước sản lượng thuỷ sản đạt 18.481 tấn, tăng 4,0% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung tám tháng năm 2024, sản lượng thủy sản đạt 131.786 tấn, tăng 4,0% so với cùng kỳ năm 2023.

Nuôi trồng thủy sản đạt 89.456 tấn, tăng 5,0% so với cùng kỳ năm 2023. Khai thác thủy sản đạt 42.330 tấn, tăng 1,9%, trong đó: sản lượng khai thác biển 40.473 tấn, tăng 1,9%; sản lượng khai thác nội địa 1.857 tấn, tăng 1,3% so với cùng kỳ năm trước.

2. Sản xuất công nghiệp

a. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP)

Sản xuất công nghiệp tháng 8/2024 duy trì đà tăng trưởng tích cực, ước tăng 2,52% so với tháng trước và tăng 14,36% so với cùng kỳ năm 2023. Tính chung 8 tháng, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 14,34% so với cùng kỳ năm trước - mức tăng cao nhất từ năm 2019 đến nay; trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 14,46%.

Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 8/2024 tăng 2,52% so với tháng trước và tăng 14,36% so với cùng kỳ năm 2023. So với tháng trước, ngành khai khoáng giảm 8,44%; ngành chế biến, chế tạo tăng 2,60%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt tăng 0,18%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải giảm 1,51%.

Chỉ số sản xuất công nghiệp tám tháng năm 2024 ước tăng 14,34% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 14,46%, đóng góp 14,06 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện,  khí đốt tăng 3,79%, đóng góp 0,09 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 20,06%, đóng góp 0,29 điểm phần trăm; ngành khai khoáng giảm 26,33%, làm giảm 0,10 điểm phần trăm.

Sản phẩm công nghiệp: Một số sản phẩm 8 tháng năm 2024 có khối lượng tăng so với cùng kỳ năm trước như: sản phẩm in tăng 27,26%; cửa ra vào, cửa sổ bằng sắt, thép tăng 19,66%; quần áo may sẵn tăng 19,60%; giày, dép tăng 18,96%; bàn ghế bằng gỗ các loại tăng 17,44%; sản phẩm mây tre đan các loại tăng 15,52%; đồ chơi tăng 10,16%; gạo xay xát tăng 8,21%; nước uống tăng 7,5%...

Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 8/2024 tăng 1,65% so với tháng trước. Tám tháng năm 2024, chỉ số này giảm 9,61% so với cùng kỳ năm trước; trong đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng: in, sao chép bản ghi các loại tăng 90,46%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 73,19%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 65,65%; sản xuất trang phục tăng 20,26%; sản xuất kim loại tăng 19,71%.

Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 31/8/2024 tăng 19,92% so với cùng thời điểm năm trước. Một số ngành có chỉ số tồn kho giảm so với cùng thời điểm năm trước: sản xuất chế biến thực phẩm giảm 15,66%; sản xuất trang phục giảm 13,09%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 4,82%.

Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp sản xuất công nghiệp tháng 8/2024 tăng 0,83% so với tháng trước. Tám tháng năm 2024, chỉ số này tăng 3,49% so với cùng kỳ năm trước.

3. Đầu tư và xây dựng

Tháng Tám, tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý đạt kết quả khá. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là các dự án trọng điểm tiếp tục được quan tâm đầu tư. Các công trình trọng điểm được chỉ đạo, đôn đốc, bảo đảm tiến độ theo đúng kế hoạch. Vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý 8 tháng năm 2024 ước thực hiện 49,8% kế hoạch năm.

Vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý tháng 8/2024 ước thực hiện 571 tỷ đồng, giảm 39,7% so với cùng kỳ năm 2023; trong đó: cấp tỉnh 519 tỷ đồng, giảm 38,3%; cấp huyện 32 tỷ đồng, giảm 61,6%; cấp xã 20 tỷ đồng, giảm 8,4%.

Tám tháng năm 2024, vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước đạt 4.509 tỷ đồng, đạt 49,8% kế hoạch năm và giảm 15,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: cấp tỉnh 4.168 tỷ đồng, đạt 49,3%, giảm 11,4%; cấp huyện 192 tỷ đồng, đạt 54,0%, giảm 61,1%; cấp xã 149 tỷ đồng, đạt 63,7%, giảm 4,0%.

Trong tháng, Tỉnh tiếp tục đôn đốc đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng và tiến độ thực hiện các dự án: Xây dựng tuyến đường bộ mới Nam Định - Lạc Quần - đường bộ ven biển; Giai đoạn II dự án Xây dựng tuyến đường trục phát triển nối vùng kinh tế biển tỉnh Nam Định với đường cao tốc cầu Giẽ - Ninh Bình; Xây dựng cầu qua sông Đào; Cầu vượt sông Đáy nối tỉnh Ninh Bình và tỉnh Nam Định; Đường trục phía Nam thành phố Nam Định (đoạn từ đường Vũ Hữu Lợi đến Quốc lộ 21B); Bệnh viện đa khoa tỉnh; Dự án đầu tư xây dựng Khu trung tâm lễ hội thuộc Khu di tích lịch sử - văn hoá thời Trần;... Các dự án xây dựng hạ tầng khu đô thị, khu dân cư tập trung, khu tái định cư của các huyện, thành phố.

Thu hút đầu tư: Theo Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh, tính đến ngày 26/8/2024, tỉnh cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư mới và điều chỉnh tăng vốn cho 24 dự án FDI với tổng số vốn đăng ký 181,3 triệu USD, trong đó cấp mới cho 17 dự án FDI với tổng số vốn đăng ký 151,9 triệu USD.

4. Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm

a. Hoạt động tài chính

Thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn 8 tháng năm 2024 ước đạt 7.867 tỷ đồng, bằng 65,4% dự toán năm, tăng 67,5% so với cùng kỳ năm 2023. Chi ngân sách Nhà nước đảm bảo chi đầu tư phát triển và các nhiệm vụ chi thường xuyên tiết kiệm, hiệu quả.

Tổng thu ngân sách Nhà nước ước đạt 24.493 tỷ đồng, tăng 17,1% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó: thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn 7.867 tỷ đồng, chiếm 32,1% tổng thu và tăng 67,5% so với cùng kỳ năm trước; thu bổ sung từ ngân sách Trung ương 6.926 tỷ đồng, chiếm 28,3% và bằng 84,5%; thu chuyển nguồn 9.699 tỷ đồng, chiếm 39,6% và tăng 23,7%.

Tổng chi ngân sách Nhà nước ước đạt 11.818 tỷ đồng, bằng 57,3% dự toán năm và tăng 12,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: chi đầu tư phát triển 5.108 tỷ đồng, chiếm 43,2% tổng chi và giảm 0,3% so với cùng kỳ năm 2023; chi thường xuyên 6.710 tỷ đồng, chiếm 56,8% và tăng 24,6%.

b. Hoạt động ngân hàng

Tổng nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh tháng 8/2024 ước tăng 5,2%; tổng dư nợ tín dụng tăng 8,2% so với ngày cuối cùng của năm trước. Các tổ chức tín dụng thực hiện nghiêm, kịp thời các chính sách về tiền tệ, tín dụng đảm bảo an toàn, hiệu quả; đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của người dân và doanh nghiệp.

Theo Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh tỉnh Nam Định, tổng nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng trên địa bàn tháng 8/2024 ước đạt 127.097 tỷ đồng, tăng 5,2% so với ngày cuối cùng của năm trước và tăng 11,3% so với cùng kỳ năm 2023. Phân theo khách hàng: huy động từ dân cư 112.538 tỷ đồng, chiếm 88,5% tổng nguồn vốn huy động và tăng 6,0%; huy động từ các tổ chức kinh tế 14.559 tỷ đồng, chiếm 11,5% và giảm 0,3% so với ngày cuối cùng của năm trước.

Tổng dư nợ cho vay của các tổ chức tín dụng ước đạt 112.650 tỷ đồng, tăng 8,2% so với ngày cuối cùng của năm trước và tăng 18,0% so với cùng kỳ năm 2023. Phân theo kỳ hạn: cho vay ngắn hạn 85.319 tỷ đồng, chiếm 75,7% và tăng 10,2% so với ngày cuối cùng của năm trước; cho vay trung và dài hạn 27.311 tỷ đồng, chiếm 24,3% và tăng 2,5% .

c. Hoạt động bảo hiểm

Hoạt động bảo hiểm tiếp tục được triển khai rộng khắp nhằm đảm bảo phục vụ tốt nhất cho các tầng lớp nhân dân và người lao động. Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế để tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân, bảo hiểm xã hội cho người lao động.

Theo Bảo hiểm xã hội tỉnh, số người tham gia các loại hình bảo hiểm tính đến ngày 01/8/2024 tăng so với cùng thời điểm năm 2023: số người tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH) 241.491 người, tăng 2,9%; số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) 205.288 người, tăng 3,2%; số người tham gia bảo hiểm y tế (BHYT) 1.714.465 người, tăng 0,3%.

Tổng thu BHXH, BHTN, BHYT (tính đến ngày 01/8/2024) là 3.468 tỷ đồng, tăng 11,0% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: thu BHXH 2.108 tỷ đồng, tăng 8,9%; thu BHTN 150 tỷ đồng, tăng 8,9%; thu BHYT 1.209 tỷ đồng, tăng 19,3%. Tổng chi BHXH, BHTN, BHYT là 4.889 tỷ đồng, tăng 18,8%, trong đó: chi BHXH 3.952 tỷ đồng, tăng 18,8%; chi BHTN 98 tỷ đồng, tăng 20,0%; chi khám chữa bệnh BHYT 838 tỷ đồng, tăng 19,0% so với cùng kỳ năm trước.

5. Tình hình đăng ký doanh nghiệp

Tám tháng năm 2024, số doanh nghiệp gia nhập thị trường và quay trở lại hoạt động (1.258 doanh nghiệp) lớn hơn số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh, giải thể (936 doanh nghiệp); số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế gấp 4,7 lần so với cùng kỳ năm trước.

Theo Sở Kế hoạch và Đầu tư, tháng 8/2024 toàn tỉnh có 78 doanh nghiệp thành lập mới với 713 tỷ đồng vốn đăng ký và 657 lao động, giảm 25,0% về số doanh nghiệp, giảm 1,7% về vốn đăng ký và giảm 56,2% về số lao động so với cùng kỳ năm trước.

Tám tháng năm 2024, toàn tỉnh có 949 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và 309 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động. Số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn là 837 doanh nghiệp và 99 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể. Số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn và hoàn tất thủ tục giải thể trong 8 tháng là 936 doanh nghiệp.

6. Thương mại, dịch vụ, giá cả

a. Tình hình nội thương

Hoạt động thương mại dịch vụ tháng 8/2024 giảm 4,5% so với tháng trước do tháng Tám năm nay trùng với tháng Bảy âm lịch nên tâm lý người dân hạn chế mua sắm. Tính chung 8 tháng năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tăng 13,9% so với cùng kỳ năm trước.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tháng 8/2024 ước đạt 6.342 tỷ đồng, giảm 4,5% so với tháng trước và tăng 13,2% so với cùng kỳ năm 2023. So với tháng trước, bán lẻ hàng hóa 5.611 tỷ đồng, giảm 4,9%; lưu trú và ăn uống 405 tỷ đồng, tăng 0,1%; du lịch lữ hành 2 tỷ đồng, giảm 1,2%; dịch vụ khác 324 tỷ đồng, giảm 2,1%.

Theo giá hiện hành, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ 8 tháng năm 2024 đạt 50.929 tỷ đồng, gấp 1,7 lần so với 8 tháng năm 2020 (năm xảy ra dịch Covid-19) và tăng 13,9% so với cùng kỳ năm trước. Xét theo ngành hoạt động:

Doanh thu bán lẻ hàng hóa 45.258 tỷ đồng, chiếm 89% tổng mức và tăng 13,5% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 3.111 tỷ đồng, tăng 20,4% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu du lịch lữ hành 14 tỷ đồng và 21,9 nghìn lượt khách, tăng 23,2% doanh thu và tăng 12,8% lượt khách. Doanh thu dịch vụ khác 2.546 tỷ đồng, tăng 13,0% so với cùng kỳ năm trước.

Công tác quản lý thị trường: Trong tháng 8/2024, lực lượng Quản lý thị trường tỉnh tiến hành kiểm tra 81 vụ, phát hiện và xử lý 37 vụ với 41 hành vi vi phạm.

b. Xuất, nhập khẩu

Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa tháng 8/2024 ước đạt 424 triệu USD, tăng 12,0% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu hàng hóa tăng 7,1%. Tính chung 8 tháng năm 2024, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 2.965 triệu USD, tăng 14,4% so với cùng kỳ năm 2023; cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 731 triệu USD.

Tính chung 8 tháng, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 1.848 triệu USD, tăng 10,1% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó: khu vực Nhà nước 20 triệu USD, giảm 34,2%; khu vực ngoài Nhà nước 505 triệu USD, tăng 11,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 1.323 triệu USD, tăng 10,7%. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là hàng may mặc, da giày và lâm sản chiếm 92,3% tổng kim ngạch xuất khẩu; kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt 1.117 triệu USD, tăng 22,4% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó: khu vực Nhà nước 14 triệu USD, giảm 41,6%; khu vực ngoài Nhà nước 269 triệu USD, tăng 14,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 834 triệu USD, tăng 27,5%. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là nguyên phụ liệu may; da và các mặt hàng liên quan; bông, xơ, sợi dệt chiếm 82,2% tổng kim ngạch nhập khẩu.

Cán cân thương mại hàng hóa sơ bộ tháng Bảy xuất siêu 117 triệu USD; tháng Tám ước tính xuất siêu 115 triệu USD. Tính chung 8 tháng, cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 731 triệu USD; trong đó: khu vực kinh tế trong nước xuất siêu 242 triệu USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài xuất siêu 489 triệu USD.

c. Giá

Giá dịch vụ y tế được điều chỉnh theo Nghị quyết 52/2024/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân tỉnh; giá lương thực, thực phẩm tăng là những nguyên nhân chính làm cho chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 8/2024 tăng 0,63% so với tháng trước và tăng 3,95% so với cùng kỳ năm 2023. Bình quân 8 tháng năm 2024, CPI tăng 4,25% so với cùng kỳ năm trước.

Trong mức tăng 0,63% của CPI tháng 8/2024 so với tháng trước, có 08 nhóm hàng tăng giá; 03 nhóm hàng giảm giá.

Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng nhiều nhất 7,74%; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống uống chiếm tỷ trọng lớn nhất trong CPI tăng 0,72% so với tháng trước; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,20; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,12; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,11%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,05; nhóm bưu chính viễn thông tăng 0,01%; nhóm giáo dục tăng 0,01.

Bình quân 8 tháng năm 2024, CPI tăng 4,25% so với cùng kỳ năm trước; chỉ số giá vàng tăng 19,40% và chỉ số giá đô la Mỹ tăng 5,75%. Trong 11 nhóm hàng hóa có 10 nhóm tăng, trong đó nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng nhiều nhất 10,08%; một nhóm giảm là nhóm bưu chính viễn thông (giảm 0,46%).

d. Giao thông vận tải

Hoạt động vận tải tháng Tám đáp ứng tốt nhu cầu đi lại, thúc đẩy lưu thông hàng hóa phục vụ sản xuất, kinh doanh. Tính chung 8 tháng năm 2024, vận chuyển hành khách tăng 4,7% và luân chuyển tăng 4,7% so với cùng kỳ năm trước; vận chuyển hàng hóa tăng 16,2% và luân chuyển tăng 17,2%.

II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI

Đời sống dân cư trên địa bàn tỉnh tháng Tám nhìn chung ổn định; công tác an sinh xã hội được chính quyền các cấp triển khai kịp thời, hiệu quả. Các cơ sở y tế thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khoẻ, khám chữa bệnh cho nhân dân. Ngành Giáo dục chuẩn bị các điều kiện triển khai nhiệm vụ năm học mới 2024-2025. Các địa phương tổ chức nhiều hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể thao chào mừng kỷ niệm 79 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.

Thực hiện chính sách với người có công và thân nhân người có công: Trong tháng 8 năm 2024, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh giải quyết chế độ chính sách liên quan đến lĩnh vực người có công (NCC) đối với 680 NCC và thân nhân NCC; giới thiệu 16 trường hợp tới Hội đồng Giám định y khoa tỉnh để khám giám định.

Tổ chức tốt các hoạt động kỷ niệm 77 năm ngày Thương binh - Liệt sĩ (27/7/1947-27/7/2024). Triển khai các hoạt động thăm hỏi, tặng quà của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, quà của huyện, xã và các tổ chức cá nhân cho hơn 58.000 đối tượng, với số tiền quà của tỉnh hơn 39 tỷ đồng; chuyển quà của Chủ tịch nước tặng người có công và thân nhân liệt sỹ với số tiền trên 17 tỷ đồng; thực hiện thắp nến tri ân liệt sĩ tại các nghĩa trang liệt sĩ trong toàn tỉnh vào tối ngày 26/7/2024; thực hiện xây dựng, tu sửa 16 công trình ghi công liệt sĩ tại các địa phương với tổng kinh phí thực hiện là trên 13,28 tỷ đồng. Tổ chức điều dưỡng đối với 1.516 người có công, thân nhân liệt sĩ.

Công tác bảo trợ xã hội: Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh thực hiện đầy đủ các chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng, phục hồi chức năng và dạy nghề cho các đối tượng đang quản lý tại trung tâm.

Sáng 09/8/2024, Hội Khuyến học tỉnh phối hợp với Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc tại Nam Định trao tặng 185 suất học bổng, mỗi suất trị giá 2 triệu đồng cho học sinh, sinh viên là con em các gia đình chính sách trên địa bàn tỉnh nhân dịp trước thềm năm học mới 2024-2025. Những em được nhận học bổng là học sinh, sinh viên vượt khó học tốt; trong đó có 110 em có ông, bà, bố là liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, nạn nhân bị nhiễm chất độc da cam/đi-ô-xin.

Ngày 25/8/2024, Hội Liên hiệp Phụ nữ (LHPN) tỉnh tổ chức hội nghị trao thưởng học bổng Hoàng Ngân và trao quà cho học sinh mồ côi, học sinh nghèo vượt khó có thành tích học tập xuất sắc năm học 2023-2024. Tại hội nghị, lãnh đạo Hội LHPN tỉnh, Hội Khuyến học tỉnh, đại diện các doanh nghiệp, nhà tài trợ đã tổ chức trao 230 suất học bổng cho học sinh đạt thành tích xuất sắc, là con của nạn nhân chất độc da cam, học sinh nghèo vượt khó học giỏi năm học 2023- 2024, trị giá mỗi suất 1 triệu đồng. Đồng thời phân bổ, ủy quyền cho Hội LHPN các huyện, thành phố tổ chức trao 1.233 suất học bổng cho học sinh đạt thành tích cao trong học tập ở các cấp học tại địa phương, mỗi suất trị giá 500 nghìn đồng nhân dịp khai giảng năm học mới.

Công tác giảm nghèo: Theo báo cáo của Ngân hàng Chính sách Xã hội tỉnh, bảy tháng năm 2024 doanh số cho vay hộ nghèo là 21.595 triệu đồng với 253 lượt khách hàng vay vốn; doanh số cho vay hộ cận nghèo 111.506 triệu đồng với 1.291 lượt khách hàng; doanh số cho vay hộ mới thoát nghèo 189.428 triệu đồng với 2.194 lượt khách hàng; doanh số cho vay giải quyết việc làm 162.997,4 triệu đồng với 2.252 lượt khách hàng; doanh số cho vay đối tượng là học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn 33.206,5 triệu đồng với 261 lượt khách hàng vay vốn; doanh số cho vay nước sạch và vệ sinh môi trường 284.121 triệu đồng với 14.208 lượt khách hàng; doanh số cho vay nhà ở xã hội là 11.757,5 triệu đồng với 25 lượt khách hàng vay vốn.

Giải quyết việc làm và đào tạo nghề: Trung tâm Dịch vụ Việc làm tư vấn việc làm, học nghề cho 1.734 lượt lao động. Giới thiệu việc làm cho 510 lao động, Số người được hưởng trợ cấp thất nghiệp là 1.072 người.

Tác giả bài viết: Trần Ngọc Linh - Phòng TK Tổng hợp

Tổng số điểm của bài viết là: 3 trong 3 đánh giá

Xếp hạng: 1 - 3 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây