I. TÌNH HÌNH KINH TẾ
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tháng 7/2024 phát triển ổn định. Sản xuất nông nghiệp tập trung chủ yếu thu hoạch xong cây trồng vụ Xuân và gieo trồng cây vụ Mùa. Chăn nuôi phát triển ổn định, dịch bệnh trên đàn vật nuôi được kiểm soát tốt. Sản xuất lâm nghiệp đẩy mạnh công tác trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng. Hoạt động nuôi trồng và khai thác thủy sản tranh thủ thời tiết thuận lợi đẩy mạnh sản xuất nhằm nâng cao sản lượng thuỷ sản và hiệu quả kinh tế.
a. Sản xuất nông nghiệp
Trồng trọt: Các địa phương trong tỉnh thu hoạch xong cây hàng năm vụ
Xuân, tích cực triển khai sản xuất vụ Mùa, trong đó tập trung gieo trồng lúa và các loại hoa màu theo khung thời vụ tốt nhất.
Sản xuất vụ Đông Xuân: Gieo trồng 91.515 ha lúa và cây rau màu các loại giảm 0,4% so với vụ Đông Xuân năm 2023; gồm 70.256 ha lúa và 21.259 ha cây rau màu các loại. Trong đó, vụ Đông gieo trồng 9.538 ha, giảm 0,7% và vụ Xuân 81.977 ha, giảm 0,4% so với cùng kỳ năm trước.
Cây lúa: Diện tích gieo cấy lúa vụ Xuân 70.256 ha, giảm 0,2% so với năm 2023. Thời tiết vụ Xuân tương đối thuận lợi cho cây lúa sinh trưởng và phát triển tốt. Năng suất lúa vụ Xuân năm 2024 đạt 69,53 tạ/ha; sản lượng 488.466 tấn, giảm 0,2% so với vụ Xuân năm 2023.
Cây rau màu các loại: Toàn tỉnh gieo trồng 21.259 ha, giảm 1,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Ngô 1.932 ha, tăng 0,4%; cây lấy củ có chất bột 2.387 ha, giảm 1,8%; cây có hạt chứa dầu 4.163 ha, giảm 1,9%; rau các loại 10.203 ha, giảm 0,6%; đậu các loại 498 ha, giảm 12,9%,…. Thời tiết thuận lợi, các loại rau phát triển ổn định, năng suất rau màu các loại tương đương và cao hơn so với vụ Đông Xuân năm trước.
Sản xuất vụ Mùa: Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn, tính đến ngày 25/7, toàn tỉnh gieo trồng được 65.550 ha lúa và 8.060 ha cây rau màu các loại.
Chăn nuôi: Tại thời điểm cuối tháng 7/2024, đàn trâu có 7.570 con, giảm 0,1%; đàn bò 28.590 con, giảm 0,1%; đàn lợn 578.948 con, tăng 0,5% so với cùng thời điểm năm trước. Đàn gia cầm 9.416 nghìn con, tăng 2,4%, trong đó đàn gà 6.654 nghìn con, tăng 2,4% so với cùng thời điểm năm trước.
Sản lượng trâu xuất chuồng 7 tháng đầu năm ước đạt 627 tấn, tăng 1,3% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng bò xuất chuồng 1.964 tấn, tăng 1,1%; sản lượng lợn xuất chuồng 94.138 tấn, tăng 2,7%. Sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng 23.260 tấn tăng 7,8%; sản lượng trứng gia cầm 310.812 nghìn quả tăng 4,8%.
b. Lâm nghiệp
Sản lượng gỗ khai thác 7 tháng năm 2024 ước đạt 2.767 m3, tăng 1,0%; sản lượng củi 7.748 ste, tăng 1,7% so cùng kỳ năm trước.
c. Thuỷ sản
Sản xuất thủy sản tháng 7/2024 tiếp tục phát triển ổn định; dự ước sản lượng thuỷ sản đạt 16.064 tấn, tăng 4,0% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 7 tháng năm 2023, sản lượng thủy sản đạt 113.305 tấn, tăng 4,0% so với cùng kỳ năm 2023.
Nuôi trồng thủy sản đạt 75.729 tấn, tăng 5,0% so với cùng kỳ năm 2023. Các giống con nuôi chủ lực vẫn là tôm sú, tôm thẻ chân trắng, ngao, cá bống bớp... Các hộ nuôi trồng thủy sản tích cực chăm sóc và thu hoạch các đối tượng đạt kích cỡ thương phẩm, các đối tượng nuôi đều ổn định, không phát sinh dịch bệnh.
Khai thác thủy sản 37.576 tấn, tăng 1,9%, trong đó: sản lượng khai thác biển 36.002 tấn, tăng 1,9%; sản lượng khai thác nội địa 1.574 tấn, tăng 1,2% so với cùng kỳ năm trước.
2. Sản xuất công nghiệp
a. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP)
Sản xuất công nghiệp tháng 7/2024 duy trì ổn định, ước tăng 1,72% so với tháng trước và tăng 14,21% so với cùng kỳ năm 2023. Tính chung 7 tháng năm 2024, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 14,28% so với cùng kỳ năm trước - mức tăng cao nhất từ năm 2019 đến nay; trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 14,42%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 7/2024 tăng 1,72% so với tháng trước và tăng 14,21% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, ngành khai khoáng giảm 3,70%; ngành chế biến, chế tạo tăng 1,73%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt tăng 0,32%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 2,11%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp bảy tháng năm 2024 ước tăng 14,28% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 14,42%, đóng góp 14,01 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 3,98%, đóng góp 0,09 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 118,56%, đóng góp 0,27 điểm phần trăm; ngành khai khoáng giảm 23,21%, làm giảm 0,09 điểm phần trăm.
Sản phẩm công nghiệp: Một số sản phẩm 7 tháng đầu năm có khối lượng tăng so với cùng kỳ năm trước như: Gạo xay xát tăng 3,80%; quần áo may sẵn tăng 27,70%; giày, dép tăng 28,90%; gỗ cưa hoặc xẻ tăng 1,62%; sản phẩm mây tre đan các loại tăng 21,22%; bao bì và túi bằng giấy tăng 7,69%; sản phẩm in tăng 28,34%; cửa ra vào, cửa sổ bằng sắt, thép tăng 19,36%; bàn ghế bằng gỗ các loại tăng 16,15%. Ngược lại, một số sản phẩm có khối lượng giảm như: Sợi các loại giảm 13,06%; vải các loại giảm 5,96%; khăn các loại giảm 6,12%; phụ tùng xe có động cơ giảm 0,55%.
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 7/2024 tăng 2,95% so với tháng trước. Bảy tháng năm 2024, chỉ số này giảm 8,22% so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 31/7/2024 tăng 33,25% so với cùng thời điểm năm trước.
Chỉ số sử dụng lao động: Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp sản xuất công nghiệp tháng 7/2024 tăng 0,11% so với tháng trước.
3. Đầu tư và xây dựng
Tháng Bảy, tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý đạt kết quả khá. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là các dự án trọng điểm tiếp tục được quan tâm đầu tư. Các công trình trọng điểm được chỉ đạo, đôn đốc, bảo đảm tiến độ theo đúng kế hoạch. Vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý 7 tháng năm 2024 ước thực hiện 44,3% kế hoạch năm.
Vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý tháng 7/2024 ước thực hiện 625 tỷ đồng, đạt 6,9% kế hoạch năm, giảm 29,8% so với cùng kỳ năm 2023; trong đó: cấp tỉnh 578 tỷ đồng, đạt 6,8%, giảm 25,2%; cấp huyện 28 tỷ đồng, đạt 8,0%, giảm 68,6%; cấp xã 19 tỷ đồng, đạt 8,1%, giảm 21,9%.
Bảy tháng năm 2024, vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước đạt 4.008 tỷ đồng, đạt 44,3% kế hoạch năm và giảm 9,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: cấp tỉnh 3.719 tỷ đồng, đạt 44,0%, giảm 3,7%; cấp huyện 160 tỷ đồng, đạt 44,9%, giảm 61,1%; cấp xã 129 tỷ đồng, đạt 55,3%, giảm 3,4%.
Trong tháng, Tỉnh tiếp tục đôn đốc đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng và tiến độ thực hiện các dự án: Xây dựng tuyến đường bộ mới Nam Định - Lạc Quần - đường bộ ven biển; Giai đoạn II dự án Xây dựng tuyến đường trục phát triển nối vùng kinh tế biển tỉnh Nam Định với đường cao tốc cầu Giẽ - Ninh Bình; Xây dựng cầu qua sông Đào; Cầu vượt sông Đáy nối tỉnh Ninh Bình và tỉnh Nam Định; Đường trục phía Nam thành phố Nam Định (đoạn từ đường Vũ Hữu Lợi đến Quốc lộ 21B); Bệnh viện đa khoa tỉnh;... Các dự án xây dựng hạ tầng khu đô thị, khu dân cư tập trung, khu tái định cư của các huyện, thành phố. Tập trung hoàn thiện các quy trình, thủ tục đầu tư xây dựng: Dự án xây dựng tuyến cao tốc Ninh Bình - Hải Phòng đoạn qua các tỉnh Nam Định, Thái Bình. Trong đó:
Dự án tuyến đường bộ mới Nam Định - Lạc Quần - Đường bộ ven biển (2022-2027) có tổng mức đầu tư 5.995 tỷ đồng. Khối lượng thi công gói thầu số 1 (đoạn Km0 đến Km15+740 và nhánh kết nối Quốc lộ 21) đạt 40%; Gói thầu số 2 (đoạn Km15+740 đến Km19+00) đạt 52,4%; Gói thầu số 3 (đoạn Km19+00 đến cuối tuyến) đạt 41,74%.
Dự án xây dựng đường trục phát triển nối Vùng kinh tế biển tỉnh Nam Định với đường cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình (2017-2024) dài 46 km đã hoàn thành giai đoạn 1, giai đoạn 2 có tổng mức đầu tư 2.487,5 tỷ đồng. Về tiến độ thi công: giá trị khối lượng thực hiện gói thầu số 1 đạt trên 65%; gói thầu số 2 đạt trên 45%. Cầu Đống Cao thuộc dự án này có chiều dài gần 2 km (gồm cả đường dẫn) đã hoàn thành trên 80% khối lượng, dự kiến hợp long vào cuối tháng 8/2024.
Dự án cầu vượt sông Đáy thuộc tuyến đường bộ cao tốc Ninh Bình - Nam Định - Thái Bình - Hải Phòng (2023-2024) tổng mức đầu tư 1.450 tỷ đồng, chiều dài toàn tuyến 2km. Công trình hoàn thành 100% cọc khoan nhồi, 28/28 bệ trụ, cơ bản hoàn thành 2 mố (M1, M2), 26/28 thân trụ và 20/24 xà mũ. Tổng khối lượng hoàn thành đạt khoảng 60%.
Dự án đầu tư xây dựng cầu vượt sông Đào nối từ đường Song Hào đến đường Vũ Hữu Lợi (2022-2025) với tổng mức đầu tư 1.200 tỷ đồng. Khối lượng thi công hoàn thành lũy kế ước đạt 64% giá trị hợp đồng xây lắp.
Dự án xây dựng Bệnh viện Đa khoa tỉnh (2021-2025) có tổng mức đầu tư 1.755 tỷ đồng. Hạng mục nhà số 1 - Khoa cấp cứu, nghiệp vụ kỹ thuật và Hành chính có giá trị hợp đồng gần 299 tỷ đồng cơ bản hoàn thành. Các hạng mục công trình nhà số 2, 3, 6 và một số hệ thống kỹ thuật có giá trị hợp đồng 811,2 tỷ đồng; tiến độ thi công đạt trên 65% giá trị hợp đồng. Hạng mục công trình còn lại khác đang được triển khai theo kế hoạch.
Thu hút đầu tư: Theo Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh, tính đến ngày 22/7/2024, tỉnh cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư mới và điều chỉnh tăng vốn cho 23 dự án FDI với tổng số vốn đăng ký 175,9 triệu USD, trong đó cấp mới cho 16 dự án FDI với tổng số vốn đăng ký 150,8 triệu USD.
4. Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm
a. Hoạt động tài chính
Thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn 7 tháng năm 2024 ước đạt 6.633 tỷ đồng, bằng 55,1% dự toán năm, tăng 67,7% so với cùng kỳ năm 2023. Chi ngân sách Nhà nước đảm bảo chi đầu tư phát triển và các nhiệm vụ chi thường xuyên tiết kiệm, hiệu quả.
Tổng thu ngân sách Nhà nước ước đạt 22.544 tỷ đồng, tăng 15,4% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó: thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn 6.633 tỷ đồng, chiếm 29,4% tổng thu và tăng 67,7% so với cùng kỳ năm trước; thu bổ sung từ ngân sách Trung ương 6.211 tỷ đồng, chiếm 27,5% và bằng 82,2%; thu chuyển nguồn 9.699 tỷ đồng, chiếm 43,0% và tăng 23,7%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước ước đạt 10.115 tỷ đồng, bằng 49,0% dự toán năm và tăng 8,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: chi đầu tư phát triển 4.492 tỷ đồng, chiếm 44,4% tổng chi và giảm 4,1% so với cùng kỳ năm 2023; chi thường xuyên 5.623 tỷ đồng, chiếm 55,6% và tăng 21,2%.
b. Hoạt động ngân hàng
Tổng nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh tháng 7/2024 ước tăng 5,2%; tổng dư nợ tín dụng tăng 7,2% so với ngày cuối cùng của năm trước. Các tổ chức tín dụng thực hiện nghiêm, kịp thời các chính sách về tiền tệ, tín dụng đảm bảo an toàn, hiệu quả; đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của người dân và doanh nghiệp.
Theo Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh tỉnh Nam Định, tổng nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng trên địa bàn tháng 7/2024 ước đạt 127.097 tỷ đồng, tăng 5,2% so với ngày cuối cùng của năm trước và tăng 12,4% so với cùng kỳ năm 2023. Phân theo khách hàng: huy động từ dân cư 112.316 tỷ đồng, chiếm 88,4% tổng nguồn vốn huy động và tăng 5,8% so với ngày cuối cùng của năm trước; huy động từ các tổ chức kinh tế 14.781 tỷ đồng, chiếm 11,6% và tăng 1,2%.
Tổng dư nợ cho vay của các tổ chức tín dụng ước đạt 111.615 tỷ đồng, tăng 7,2% so với ngày cuối cùng của năm trước và tăng 18,0% so với cùng kỳ năm 2023. Phân theo kỳ hạn: cho vay ngắn hạn 84.438 tỷ đồng, chiếm 75,7% và tăng 9,1% so với ngày cuối cùng của năm trước; cho vay trung và dài hạn 27.177 tỷ đồng, chiếm 24,3% và tăng 1,9% . Phân theo loại khách hàng vay: hộ gia đình, cá nhân 79.058 tỷ đồng, chiếm 70,8% và tăng 7,9%; doanh nghiệp, hợp tác xã 30.852 tỷ đồng, chiếm 29,2% và tăng 5,5%.
c. Hoạt động bảo hiểm
Hoạt động bảo hiểm tiếp tục được triển khai rộng khắp nhằm đảm bảo phục vụ tốt nhất cho các tầng lớp nhân dân và người lao động. Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế để tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân, bảo hiểm xã hội cho người lao động.
Theo Bảo hiểm xã hội tỉnh, số người tham gia các loại hình bảo hiểm tính đến ngày 30/6/2024 tăng so với cùng thời điểm năm 2023: số người tham gia bảo hiểm xã hội 240.294 người, tăng 2,2%; số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp 204.070 người, tăng 2,1%; số người tham gia bảo hiểm y tế 1.707.598 người, tăng 0,4%.
Tổng thu BHXH, BHTN, BHYT sáu tháng đầu năm 2024 là 2.994 tỷ đồng, tăng 9,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: thu BHXH 1.808 tỷ đồng, tăng 5,2%; thu BHTN 125 tỷ đồng, tăng 7,2%; thu BHYT 1.060 tỷ đồng, tăng 18,1%. Tổng chi BHXH, BHTN, BHYT là 4.114 tỷ đồng, tăng 9,6%, trong đó: chi BHXH 3.327 tỷ đồng, tăng 10,5%; chi BHTN 82 tỷ đồng, tăng 6,4%; chi khám chữa bệnh BHYT 704 tỷ đồng, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước.
5. Tình hình đăng ký doanh nghiệp
Bảy tháng đầu năm 2024, số doanh nghiệp gia nhập thị trường và quay trở lại hoạt động (1.116 doanh nghiệp) lớn hơn số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh, giải thể (924 doanh nghiệp); số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế gấp 3,7 lần so với cùng kỳ năm trước.
Theo Sở Kế hoạch và Đầu tư, tháng 7/2024 toàn tỉnh có 75 doanh nghiệp thành lập mới với 1.115 tỷ đồng vốn đăng ký và 2.416 lao động, giảm 19,4% về số doanh nghiệp, tăng 42,5% về vốn đăng ký và tăng 114,2% về số lao động so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, có 18 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 5,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong tháng có 43 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 22,9% so với cùng kỳ năm 2023 và 7 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, giảm 53,3%.
Bảy tháng năm 2024, toàn tỉnh có 846 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký 28.664 tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký 11.872 lao động, tăng 16,0% về số doanh nghiệp, gấp 3,7 lần về vốn đăng ký và giảm 20,3% về số lao động so với cùng kỳ năm 2023. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới đạt 34 tỷ đồng, gấp 3,2 lần so với cùng kỳ năm 2023. Bên cạnh đó, còn có 270 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 0,7%. Số doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong 7 tháng đạt 1.116 doanh nghiệp, tăng 11,2% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân một tháng có 159 doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động.
6. Thương mại, dịch vụ, giá cả
a. Tình hình nội thương
Tháng Bảy là tháng cao điểm của mùa du lịch hè nên hoạt động thương mại dịch vụ diễn ra sôi động, doanh thu các ngành tăng, đặc biệt là doanh thu du lịch lữ hành. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tháng 7/2024 ước tính tăng 2,3% so với tháng trước và tăng 17,4% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 7 tháng năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tăng 14,2% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tháng 7/2024 ước đạt 6.715 tỷ đồng, tăng 2,3% so với tháng trước và tăng 17,4% so với cùng kỳ năm 2023. So với tháng trước, bán lẻ hàng hóa 5.978 tỷ đồng, tăng 2,4%; lưu trú và ăn uống 403 tỷ đồng, tăng 1,0%; du lịch lữ hành 2 tỷ đồng, tăng 1,2%; dịch vụ khác 332 tỷ đồng, tăng 1,5%.
Theo giá hiện hành, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ 7 tháng năm 2024 đạt 44.662 tỷ đồng, gấp 1,7 lần so với 7 tháng năm 2020 (năm xảy ra dịch Covid-19) và tăng 14,2% so với cùng kỳ năm trước.
Xét theo ngành hoạt động: Doanh thu bán lẻ hàng hóa 39.723 tỷ đồng, chiếm 89% tổng mức và tăng 13,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó một số nhóm hàng có tốc độ tăng cao: Lương thực, thực phẩm tăng 17,3%; hàng may mặc tăng 11,3%; đồ dùng dụng cụ và trang thiết bị gia đình tăng 7,6%; vật phẩm, văn hóa, giáo dục tăng 12,2%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 17%; ô tô con (dưới 9 chỗ) tăng 82,8%; hàng hóa khác tăng 13,7%.
Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 2.703 tỷ đồng, tăng 19,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: ngành lưu trú 172 tỷ đồng và 483 nghìn lượt khách, tăng 2,8% doanh thu và 2,2% lượt khách; ngành ăn uống đạt 2.531 tỷ đồng, tăng 20,9%.
Doanh thu du lịch lữ hành 12 tỷ đồng và 19,2 nghìn lượt khách, tăng 21,2% doanh thu và tăng 12,4% lượt khách. Doanh thu dịch vụ khác 2.224 tỷ đồng, tăng 13,1% so với cùng kỳ năm trước.
b. Xuất, nhập khẩu
Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa tháng 7/2024 ước đạt 399 triệu USD, tăng 17,4% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 7 tháng năm 2024, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 2.528 triệu USD, tăng 14,2% so với cùng kỳ năm 2023; cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 594 triệu USD.
Xuất khẩu hàng hóa: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sơ bộ tháng 6/2024 đạt 242 triệu USD; tháng 7/2024 ước đạt 246 triệu USD, tăng 1,8% so với tháng trước và tăng 8,2% so với cùng kỳ năm 2023.
Tính chung 7 tháng, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 1.561 triệu USD, tăng 9,4% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó: khu vực Nhà nước 16 triệu USD, giảm 38,9%; khu vực ngoài Nhà nước 419 triệu USD, tăng 10,0%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 1.126 triệu USD, tăng 10,4%. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là hàng may mặc, da giày và lâm sản chiếm 92,3% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Nhập khẩu hàng hóa: Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa sơ bộ tháng 6/2024 đạt 149 triệu USD; tháng 7/2024 ước đạt 152 triệu USD, tăng 2,2% so với tháng trước và tăng 36,0% so với cùng kỳ năm 2023.
Tính chung 7 tháng, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt 967 triệu USD, tăng 23,1% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó: khu vực Nhà nước 12 triệu USD, giảm 43,7%; khu vực ngoài Nhà nước 243 triệu USD, tăng 19,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 712 triệu USD, tăng 27,2%. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là nguyên phụ liệu may; da và các mặt hàng liên quan; bông, xơ, sợi dệt chiếm 82,0% tổng kim ngạch nhập khẩu.
Cán cân thương mại hàng hóa sơ bộ tháng Sáu xuất siêu 93 triệu USD; tháng Bảy ước tính xuất siêu 94 triệu USD. Tính chung 7 tháng, cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 594 triệu USD; trong đó: khu vực kinh tế trong nước xuất siêu 179 triệu USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài xuất siêu 415 triệu USD.
c. Giá
Giá dịch vụ bảo hiểm y tế được điều chỉnh tăng theo mức lương cơ sở và giá xăng dầu tăng theo giá nhiên liệu thế giới là những nguyên nhân chính làm cho chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7/2024 tăng 0,81% so với tháng trước và tăng 4,05% so với cùng kỳ năm 2023. Bình quân 7 tháng năm 2024, CPI tăng 4,29% so với cùng kỳ năm trước.
Trong mức tăng 0,81% của CPI tháng 7/2024 so với tháng trước, có 07 nhóm hàng tăng giá; 01 nhóm hàng giảm giá và 03 nhóm giá ổn định.
(1) Bảy nhóm hàng hóa và dịch vụ tăng giá gồm:
Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng nhiều nhất 5,74% so với tháng trước chủ yếu do giá dịch vụ bảo hiểm y tế tăng 30% theo mức lương cơ sở từ ngày 01/7/2024 theo Nghị định 73/2024/NĐ-CP ngày 30/6/2024 của Chính phủ.
Nhóm giao thông tăng 1,46% do giá xăng, dầu trong nước điều chỉnh tăng theo giá nhiên liệu thế giới. Bình quân tháng 7/2024 giá nhiên liệu tăng 3,68%; trong đó giá xăng tăng 3,81%, cụ thể: xăng A95 tăng 960 đồng/lít, xăng E5 tăng 818 đồng/lít.
Nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 1,25% chủ yếu do các nguyên nhân sau: Giá điện sinh hoạt tăng 6,34%; giá dầu hỏa tăng 4,36% do ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giá làm giá dầu hỏa tăng 898 đồng/lít; giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 0,12% trong đó giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở chính tăng 0,15%.
Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống uống chiếm tỷ trọng lớn nhất trong CPI tăng 0,73%. Chủ yếu giá thực phẩm tăng 0,19% do giá thịt lợn tăng 0,87% nguyên nhân do nguồn cung thiếu hụt sau khi giá lợn hơi chạm đáy vào cuối năm 2023, đồng thời dịch tả lợn châu Phi đang xảy ra nên người dân lo ngại không tái đàn.
Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,16% do nhu cầu tiêu dùng đồ uống giải khát tăng trong mùa hè.
Nhóm giáo dục tăng 0,09% nguyên nhân chủ yếu do giá văn phòng phẩm tăng 0,07.
Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,01% trong đó vé thuê chỗ chơi thể thao tăng 0,25% do nhu cầu tăng trong dịp hè.
(2) Ở chiều ngược lại, nhóm hàng hóa và dịch vụ giảm giá: Nhóm may mặc, mũ nón và giày dép giảm 0,15% do các doanh nghiệp và cơ sở kinh doanh thực hiện nhiều chương trình khuyến mại kích cầu mua sắm.
(3) Ba nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá ổn định so với tháng trước: Nhóm thiết bị, đồ dùng gia đình; nhóm bưu chính viễn thông và nhóm giáo dục. Chỉ số giá vàng giảm 4,96% và chỉ số giá đô la Mỹ tăng 0,02% so với tháng trước.
Bình quân 7 tháng năm 2024, CPI tăng 4,29% so với cùng kỳ năm trước; chỉ số giá vàng tăng 19,58% và chỉ số giá đô la Mỹ tăng 5,72%. Trong 11 nhóm hàng hóa có 10 nhóm tăng, trong đó nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng nhiều nhất 10,20%; một nhóm giảm là nhóm bưu chính viễn thông (giảm 0,45%).
d. Giao thông vận tải
Hoạt động vận tải tháng Bảy phát triển ổn định, đáp ứng tốt nhu cầu đi lại và phục vụ sản xuất, kinh doanh. Hành khách vận chuyển tháng 7/2024 tăng 1,5% và luân chuyển tăng 2,0% so với tháng trước; hàng hóa vận chuyển tăng 1,8% và luân chuyển tăng 2,4%. Tính chung 7 tháng năm 2024, vận chuyển hành khách tăng 4,8% và luân chuyển tăng 5,0% so với cùng kỳ năm trước; vận chuyển hàng hóa tăng 15,8% và luân chuyển tăng 16,9%.
Doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng 7/2024 ước đạt 795 tỷ đồng, 2,9% so với tháng trước và tăng 15,3% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 7 tháng, doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 4.933 tỷ đồng, tăng 14,7% so với cùng kỳ năm trước.
Vận tải hành khách tháng 7/2024 ước đạt 2.006 nghìn lượt khách vận chuyển, tăng 4,2% và luân chuyển 152 triệu lượt khách.km, tăng 3,7% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 7 tháng, vận tải hành khách ước đạt 13.832 nghìn lượt khách vận chuyển, tăng 4,8% và luân chuyển 1.049 triệu lượt khách.km, tăng 5,0% so với cùng kỳ năm trước.
Vận tải hàng hóa tháng 7/2024 ước đạt 4.710 nghìn tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 18,3% và luân chuyển 1.039 triệu tấn.km, tăng 16,5% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 7 tháng, vận tải hàng hóa ước đạt 29.763 nghìn tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 15,8% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển 6.310 triệu tấn.km, tăng 16,9%.
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI
Đời sống dân cư trên địa bàn tỉnh tháng Bảy nhìn chung ổn định; công tác an sinh xã hội được chính quyền các cấp triển khai kịp thời, hiệu quả. Tình hình dịch bệnh tiếp tục được kiểm soát; công tác chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh cho Nhân dân được thực hiện tốt. Ngành Giáo dục đạt kết quả cao trong kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2024; tổ chức tốt kế hoạch tuyển sinh vào các lớp đầu cấp năm học 2024-2025. Các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể thao được duy trì. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Thực hiện chính sách với người có công và thân nhân người có công: Trong tháng 6 năm 2024, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh giải quyết chế độ chính sách liên quan đến lĩnh vực người có công (NCC) đối với 646 NCC và thân nhân NCC; giới thiệu 17 trường hợp tới Hội đồng Giám định y khoa tỉnh để khám giám định.
Công tác bảo trợ xã hội: Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh thực hiện đầy đủ các chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng, phục hồi chức năng và dạy nghề cho các đối tượng đang quản lý tại trung tâm.
Công tác giảm nghèo: Theo báo cáo của Ngân hàng Chính sách Xã hội tỉnh, sáu tháng năm 2024 doanh số cho vay hộ nghèo là 18.375 triệu đồng với 217 lượt khách hàng vay vốn; doanh số cho vay hộ cận nghèo 99.581 triệu đồng với 1.153 lượt khách hàng; doanh số cho vay hộ mới thoát nghèo 171.673 triệu đồng với 1.995 lượt khách hàng; doanh số cho vay giải quyết việc làm 154.664,5 triệu đồng với 2.123 lượt khách hàng; doanh số cho vay đối tượng là học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn 33.206,5 triệu đồng với 261 lượt khách hàng vay vốn; doanh số cho vay nước sạch và vệ sinh môi trường 258.506 triệu đồng với 12.927 lượt khách hàng; doanh số cho vay nhà ở xã hội là 8.390 triệu đồng với 19 lượt khách hàng vay vốn.
Giải quyết việc làm và đào tạo nghề: Theo Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh, 6 tháng đầu năm, toàn tỉnh đã giải quyết việc làm và tạo việc làm mới cho 15.950 lao động, đạt 47,9% kế hoạch năm 2024. Trung tâm Dịch vụ Việc làm tư vấn việc làm đã tư vấn việc làm, học nghề cho 14.603 lượt lao động. Giới thiệu việc làm cho 5.363 lượt người; giải quyết chế độ bảo hiểm thất nghiệp cho 5.695 lao động.
Tác giả bài viết: Trần Ngọc Linh - Phòng TK Tổng hợp
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn